Lịch sử Cộng_đồng_Kinh_tế_châu_Âu

Bối cảnh

Năm 1951, Hiệp ước Paris thành lập Cộng đồng Than Thép châu Âu (ECSC) được ký kết. Đây là một cộng đồng quốc tế dựa trên chủ trương siêu quốc gia và luật pháp quốc tế, để giúp nền kinh tế châu Âu và ngăn ngừa chiến tranh trong tương lai, bằng cách hội nhập các nước thành viên châu Âu với nhau.

Trong mục đích lập một Liên bang châu Âu, hai cộng đồng khác đã được đề nghị: Cộng đồng Phòng vệ châu Âu (European Defence Community, EDC) và Cộng đồng Chính trị châu Âu (European Political Community, EPC). Trong khi Hiệp ước cho các Cộng đồng nói trên được phòng nghị viện Cộng đồng Than Thép châu Âu soạn thảo, thì Nghị viện Pháp đã bác bỏ "Cộng đồng Phòng vệ châu Âu". Chủ tịch Ủy ban châu Âu Jean Monnet, nhân vật lãnh đạo đằng sau các cộng đồng, đã từ chức để phản đối, và bắt đầu dự kiến tạo ra các cộng đồng khác, dựa trên việc hội nhập kinh tế hơn là hội nhập chính trị.[2] Sau Hội nghị Messina (Ý) năm 1955, Paul Henri Spaak được trao nhiệm vụ chuẩn bị một bản báo cáo về ý tưởng một liên minh thuế quan (customs union). Cái gọi là Báo cáo của Spaak[3] của Ủy ban Spaak đã tạo thành nền tảng cho các cuộc thương thuyết liên chính phủ tại Lâu đài Val Duchesse (Bỉ) năm 1956. Cùng với Báo cáo của Ohlin, báo cáo của Spaak đã tạo cơ sở cho Các hiệp ước Roma.

Năm 1956, Paul Henri Spaak lãnh đạo Hội nghị liên chính phủ về Thị trường chung và Euratom tại Lâu đài Val Duchesse, để chuẩn bị cho Các hiệp ước Roma năm 1957. Hội nghị này dẫn tới việc ký kết Các hiệp ước Roma ngày 25.3.1957 để lập ra Cộng đồng Kinh tế châu Âu.

Việc thành lập & các năm đầu

Các cộng đồng được thành lập là Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EAEC hoặc Euratom). Các cộng đồng này rõ ràng là ít siêu quốc gia hơn các cộng đồng dự trù trước kia, do việc phản đối của một số nước, cho là chủ quyền của họ bị xâm phạm. Cuộc họp chính thức đầu tiên của Ủy ban Hallstein, diễn ra ngày 16.1.1958 tại Lâu đài Val Duchesse. Cộng đồng Kinh tế châu Âu đã lập ra liên minh thuế quan trong khi Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu thúc đẩy việc hợp tác trong lãnh vực năng lượng nguyên tử. Cộng đồng Kinh tế châu Âu nhanh chóng trở thành quan trọng nhất trong 3 cộng đồng, và mở rộng các hoạt động của mình. Một trong các thực hiện quan trọng đầu tiên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu là lập ra mức giá chung cho các sản phẩm nông nghiệp (1962). Năm 1968, các thuế quan trên một số sản phẩm buôn bán giữa các nước thành viên đã được bãi bỏ.

Một khủng hoảng khác đã xảy ra đối với các đề nghị tài trợ Chính sách Nông nghiệp chung, có hiệu lực từ năm 1962. Thời gian quá độ nhờ đó các quyết định được đưa ra bằng cách nhất trí đã chấm dứt, và cuộc bỏ phiếu đa số trong Hội đồng đã có hiệu lực. Việc chống đối chủ trương siêu quốc gia của Tổng thống Pháp thời đó Charles de Gaulle dẫn tới "chính sách bỏ trống ghế" do các đại diện của Pháp rút khỏi các cơ quan của Cộng đồng, cho tới khi quyền phủ quyết của Pháp được phục hồi. Cuối cùng, đạt tới thỏa hiệp Luxembourg ngày 29.1.1966 do đó một thoả thuận của người quân tử (gentlemen's agreement) cho phép các thành viên sử dụng quyền phủ quyết trên các lĩnh vực quyền lợi quốc gia.[4][5]

Năm 1967 Hiệp ước Hợp nhất đã có tác dụng, hợp nhất các cơ quan của Cộng đồng Than Thép châu ÂuCộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu với các cơ quan của Cộng đồng Kinh tế châu Âu, các cơ quan này vốn đã dự phần vào Nghị viện châu ÂuTòa án Cộng đồng châu Âu. Một cách tập thể, chúng được gọi là Các cộng đồng châu Âu. Các cộng đồng này vẫn có tư cách pháp nhân độc lập, dù đã gia tăng hội nhập. Vì nó gần sát với mục tiêu hội nhập chính trị và thống nhất châu Âu một cách hòa bình, nên Mikhail Gorbachev đã mô tả là Ngôi nhà chung châu Âu (Common European Home).

Việc mở rộng & các cuộc tuyển cử

Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đã phủ quyết việc gia nhập của Anh, kìm hãm sự phát triển quyền của Nghị viện và ở trung tâm của 'cuộc khủng hoảng ghế trống' năm 1967

Thập niên 1960 đã có các ý định mở rộng Cộng đồng. Ngày 3.5.1960, Đan Mạch, Ireland, Na UyVương quốc Anh xin gia nhập Các cộng đồng châu Âu. Tuy nhiên tổng thống Pháp Charles de Gaulle coi việc gia nhập của Anh như con ngựa thành Troia của Hoa Kỳ cài vào, nên đã phủ quyết và đơn xin gia nhập của 4 nước nói trên bị đình hoãn.

Bốn nước này lại nộp đơn xin gia nhập ngày 11.5.1967, lúc đó Georges Pompidou làm tổng thống Pháp kế vị Charles de Gaulle, nên Pháp không phủ quyết. Các cuộc thương lượng bắt đầu từ năm 1970 dưới thời chính phủ thân châu Âu của thủ tướng Anh Edward Heath về sự bất đồng ý kiến liên quan tới Chính sách Nông nghiệp chung cùng quan hệ của Vương quốc Anh với Khối Thịnh vượng chung Anh, 2 năm sau các hiệp ước gia nhập đã được ký kết và 3 nước Đan Mạch, Ireland và Vương quốc Anh đã gia nhập Cộng đồng (ngoại trừ Na Uy, vì dân bỏ phiếu chống, trong cuộc trưng cầu ý dân).

Các hiệp ước Roma quy định là Nghị viện châu Âu phải được dân bầu trực tiếp, tuy nhiên điều đó đòi Hội đồng châu Âu trước hết phải nhất trí về một hệ thống bầu cử chung. Hội đồng đã trì hoãn vấn đề này và Nghị viện vẫn được chỉ định[6].

Nghị viện làm áp lực để đạt tới sự thỏa thuận, và ngày 20.9.1976 Hội đồng đã đồng ý phần các phương tiện cần thiết cho việc bầu cử, nhưng hoãn các chi tiết về các hệ thống bầu cử mà ngày nay vẫn còn khác biệt.[6] Dưới thời chủ tịch Jenkins, tháng 6 năm 1979, các cuộc tuyển cử đã được tổ chức trong mọi quốc gia thành viên thời đó (xem Cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu, 1979).[7] Nghị viện mới, được kích động bởi cuộc bầu cử trực tiếp và quyền hành mới, đã bắt đầu làm việc trọn thời gian và tích cực hơn các nghị viện trước đây.[6]

Ngay sau cuộc bầu cử, Nghị viện trở thành cơ quan đầu tiên của Cộng đồng đưa ra đề nghị Cộng đồng nên chọn một lá Cờ châu Âu.[8] Hội đồng châu Âu đã đồng ý và chọn các biểu tượng châu Âu là các biểu tượng của Cộng đồng năm 1984.[9]

Hướng về Hiệp ước Maastricht

Enlargement, 1957 to 2007
  Community enlargement
  Post 1993

Hy Lạp xin gia nhập Cộng đồng ngày 12.6.1975, tiếp theo sự khôi phục nền dân chủ và được gia nhập ngày 1.1.1981.[10] Tiếp theo Hy Lạp, và sau việc khôi phục dân chủ của mình, Tây Ban NhaBồ Đào Nha xin gia nhập năm 1977 và được gia nhập ngày 1.1.1986.[11] Năm 1987 Thổ Nhĩ Kỳ chính thức xin gia nhập Cộng đồng và bắt đầu quá trình đàm phán về việc xin gia nhập lâu nhất trong số các nước xin gia nhập (năm 2009, vẫn còn đang thương lượng).

Với triển vọng mở rộng hơn nữa, và việc mong muốn tăng cường hợp tác, Đạo luật chung châu Âu đã được các bộ trưởng ngoại giao các nước thành viên ký ngày 17.2.1986 tại thành phố Luxembourg và ngày 28.2.1986 tại thành phố Den Haag, (Hà Lan). Trong một tài liệu đơn, có nêu vấn đề cải cách các thể chế, gia tăng quyền lực, hợp tác trong chính sách đối ngoại và thị trường chung, và có hiệu lực từ ngày 1.7.1987.[12] Đạo luật này bị ảnh hưởng bởi dự định tạo ra Hiệp ước Maastricht, được ký ngày 10.12.1991, và có hiệu lực từ ngày 1.11.1993, lập ra Liên minh châu Âu.

Liên minh châu Âu thu nạp Cộng đồng Kinh tế châu Âu làm một trong 3 trụ cột của mình. Các lãnh vực hoạt động của Cộng đồng Kinh tế châu Âu trở thành một trụ cột của Cộng đồng châu Âu, tiếp tục theo cấu trúc siêu quốc gia của Cộng đồng Kinh tế châu Âu. Các cơ quan của Cộng đồng Kinh tế châu Âu trở thành các cơ quan của Liên minh châu Âu, một số cơ quan thay đổi tên tùy theo nhu cầu; tuy nhiên Tòa án, Nghị viện và Ủy ban châu Âu chỉ có đầu vào hạn chế trong 3 trụ cột mới, như chúng làm việc theo hệ thống liên chính phủ nhiều hơn là Cộng đồng châu Âu. Theo Hiệp ước Lisbon, hệ thống trụ cột này bị hủy bỏ và các trụ cột này phải theo con đường của Cộng đồng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cộng_đồng_Kinh_tế_châu_Âu http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=950... http://aei.pitt.edu/995/ http://europa.eu/index_en.htm http://europa.eu/institutions/inst/auditors/index_... http://europa.eu/institutions/inst/comm/index_en.h... http://europa.eu/institutions/inst/council/index_e... http://www.europarl.europa.eu/news/expert/backgrou... http://eisenhower.archives.gov/Research/Finding_Ai... http://www.coe.int/T/E/Com/About_Coe/flag.asp http://www.ena.lu/